Năm 2023, mục tiêu GDP tăng 6,5%: Thách thức nhưng khả thi

|

Năm 2023, mục tiêu GDP tăng 6,5%: Thách thức nhưng khả thi

Để tiếp tục phục hồi, phát triển kinh tế trong năm 2023, Quốc hội đã đặt ra mục tiê;u GDP đạt khoảng 6,5%; GDP bì;nh quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4 - 25,8%...

Mục tiê;u này tạo ra những kỳ vọng, nhưng cũng có những vấn đề đặt ra khi thực hiện.

Năm bản lề 2023

Trước tiê;n, phải khẳng định, mục tiê;u này có tính khả thi. Tính khả thi được nhận diện dưới 3 góc độ khác nhau. Ở góc độ thứ nhất, đó là sự tiếp tục của đà hồi phục tăng trưởng với tốc độ rất cao (8,02%) của năm 2022. Ở góc độ thứ hai, đó là sự thể hiện tính thận trọng của các nhà hoạch định vĩ mô, khi gốc so sánh đã chuyển từ rất thấp (trong năm 2020, 2021) sang khá cao (trong năm 2022), nê;n tốc độ tăng của 2023 sẽ không thể cao như năm 2022. Ở góc độ thứ ba, kinh tế đang có những khó khăn và đứng trước những thách thức không nhỏ. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ ra một số nguy cơ là cạn kiệt tài nguyê;n, biến đổi khí hậu, già hóa dân số, chê;nh lệch thu nhập giàu nghèo, đại dịch, phục hồi kinh tế…

Tuy nhiê;n, tăng trưởng GDP không chỉ có tính khả thi, mà còn phải đáp ứng yê;u cầu tăng trưởng trong kế hoạch 5 năm (2021 - 2025). Mục tiê;u này đề ra yê;u cầu tốc độ tăng GDP bì;nh quân năm trong 5 năm 2021 - 2025 là

6,5 - 7%. Theo đó, GDP đến năm 2025 so với năm 2020 phải tăng 37 - 40,3%. Năm 2021 đã tăng 2,56%, năm 2022 đã tăng 8,02%, năm 2022 so với năm 2020 tăng 10,79% (bì;nh quân 1 năm tăng 5,26% và 3 năm còn lại phải tăng 23,7 - 26,6%, bì;nh quân 1 năm phải tăng 7,35 - 8,19%, là những tốc độ tăng khá cao, không dễ đạt được. Năm 2023 là năm bản lề trong 5 năm 2021 - 2025. Nếu năm 2023 không đạt được tốc độ cao như trê;n, thì gánh nặng sẽ dồn vào 2 năm cuối của kế hoạch 5 năm.

Do vậy, vấn đề đặt ra trong chỉ đạo điều hành là năm 2023 phải tăng cao hơn mục tiê;u 6,5% theo Nghị quyết của Quốc hội để phấn đấu đạt được mục tiê;u của kế hoạch 5 năm 2021 - 2025.

Hướng tới thu nhập bì;nh quân đầu người đạt 4.400 USD

Khi GDP bì;nh quân đầu người vượt qua mốc 1.000 USD, Việt Nam ra khỏi nhóm thu nhập thấp, chuyển sang nhóm nước thu nhập trung bình (thấp); sau nhiều năm tăng liê;n tục đến năm 2021 đạt 3.717 USD.

GDP bì;nh quân đầu người phụ thuộc vào 3 yếu tố: GDP tính bằng VND (giá thực tế); tỷ giá VND/USD bì;nh quân năm; dân số trung bình năm. Năm 2023, tốc độ tăng GDP (giá so sánh) theo mục tiê;u là 6,5%; nếu chỉ số giảm phát GDP cao hơn năm 2022 (4% so với 3,86%), thì tốc độ tăng GDP theo giá thực tế sẽ tăng 10,61%, hay đạt 10.523 nghìn tỷ đồng. Tỷ giá VND/USD bì;nh quân năm 2023 tăng 1,5% so với 2022, thì giá USD năm 2023 sẽ đạt 23.622 VND.

Dân số trung bình năm 2023 tăng 0,97% (như 2022). GDP bì;nh quân đầu người tính bằng VND sẽ đạt 104,78 triệu đồng/người. GDP bì;nh quân đầu người tính bằng USD năm 2023 sẽ đạt 4.436 USD. Theo đó, mục tiê;u 2023 với 4.400 USD/người là có tính khả thi.

Để đạt được mục tiê;u này cần tập trung thực hiện một số giải pháp quan trọng. Trước hết, tăng trưởng GDP phải đạt được mục tiê;u tăng 6,5% và phải đạt cao hơn. Muốn vậy, phải tăng đầu tư, tiê;u dùng cuối cùng và xuất siê;u. Đầu tư phải tăng quy mô, tức là phải cao hơn tỷ lệ/GDP của năm 2022 (33,8%), đạt trở lại tỷ lệ trê;n 34% như các năm trước đó, trong đó đầu tư công 696,7 nghìn tỷ đồng, bằng 33,6% tổng chi ngân sách; thực hiện gói cấp bù lãi suất… Còn phải tăng hiệu quả đầu tư, tức là hệ số ICOR phải thấp hơn mức của năm 2022 (dưới 6 lần).

Tiê;u dùng cuối cùng năm 2022 đã tăng rất cao (giá thực tế tăng 19,8%, nếu loại giá tăng 15,6%), nhưng chủ yếu do năm 2021 ở mức rất thấp. Năm 2023 sẽ khó đạt được các tốc độ tăng như năm trước, nhưng phải có mức tăng cao hơn để có quy mô đạt được như trước đại dịch (năm 2022 quy mô chỉ bằng 82,5% năm 2019, trước đại dịch). Muốn vậy, ngoài việc tăng lương công viê;n chức, lương hưu, thì cần không tăng giá các loại dịch vụ do Nhà nước định giá, cân nhắc giảm tỷ suất một số loại thuế, phí…

Công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT) có vai trò quan trọng, được coi là tiê;u chí trọng yếu nhất và có tác động đến nhiều tiê;u chí khác của nước công nghiệp.

Tỷ trọng CNCBCT/GDP qua một số năm đã liê;n tục tăng lê;n. Năm 2022, tỷ trọng trê;n đạt 24,76%. Với tỷ trọng đã đạt được trê;n dưới 24,8% trong năm 2021, 2022 và với tốc độ tăng của CNCBCT cao hơn tốc độ tăng GDP chung thì mục tiê;u 2023 ở mức 25,4 - 25,8% không phải quá cao, mà có tính khả thi.

Hơn nữa, cơ cấu trong CNCBCT có một s??? ưu thế đáng lưu ý. Do tỷ trọng về GDP cao hơn tỷ trọng về lao động đang làm việc chứng tỏ CNCBCT có năng suất lao động cao hơn mức năng suất lao động. Cơ cấu CNCBCT trong khối DN theo trình độ công nghệ (cao, trung bình, thấp) đã có sự chuyển dịch tích cực. Trong khi công nghệ trung bình và công nghệ thấp giảm tương ứng. Tỷ trọng hàng xuất khẩu của CNCBCT tăng và hiện ở mức cao (từ 92,5% năm 2015 lê;n 96,2% năm 2021).

Tuy nhiê;n, CNCBCT còn có những hạn chế và đứng trước những thách thức không nhỏ. Về tỷ trọng, hiện đã cao hơn mục tiê;u 20% nhưng đó là mục tiê;u quá thấp, phải được nâng lê;n (trê;n 30% vào năm 2025). Công nghiệp hỗ trợ còn yếu; số DN công nghiệp hỗ trợ chỉ có 300/1.800 DN tham gia chuỗi cung ??ng c???a các công ty quốc gia. Do công nghiệp hỗ trợ còn yếu, tính gia công lắp ráp còn lớn, nê;n thực thu thấp, nhập khẩu cao./.

 Đức Minh

Nguồn:https://kinhtedothi.vn

Trang web giải trí Lucky Cat